SƠ LƯỢC VỀ ĐÀN KOTO – NHỰT BỔN
Theo
truyền thuyết, một nhạc sĩ người Trung Quốc đem một cây đàn tranh vào
xứ Nhựt và cây đàn ấy gọi là So-no-koto hiện vẫn còn được sử dụng trong
vũ điệu cung đình cổ truyền Bugaku. Hoặc một huyền thoại cho rằng vào
thế kỷ thứ 7, có một bà thuộc dòng dõi quý tộc tên là Ishikawa Iroko,
trong thời gian đi nghỉ ở miền quê, một hôm tình cờ bà nghe một âm thanh
lạ khi đi dạo gần một động núi. Bà mới đi lại gần nghe và gặp một ông
đạo sĩ người Trung Quốc đang khảy đàn tranh. Bà Ishikawa Iroko mê mẩn
tâm thần và xin thọ giáo. Sau một thời gian học tập, bà ta mới trở về
nhà, thuật lại cho mọi người nghe. Không ai chịu tin rằng chuyện đó có
thật. Bà tức quá mới dẫn mọi người lại động núi thì không thấy ai hết,
mà chỉ thấy trên vòm trời xanh ngay trên đỉnh núi lơ lửng một vầng mây
trắng. Từ đó bà Ishikawa Iroko mở trường dạy đàn tranh và thành lập môn
phái Kyushu. Điều chắc chắn là đàn tranh Koto Nhựt có từ thời đại Nara
(710-793) được dùng trong dàn nhạc Gagaku (Nhã nhạc). Mãi tới đầu thế
kỷ thứ 16, vào thời đại Momoyama (1574-1602), một nhà sư đạo Phật ở miền
Bắc Kyushu tên là Kenjun (1547-1636) sáng tác những bài hát đầu tiên
với tiếng đệm của đàn tranh. Loại nhạc mới này gọi là Tsukushi-goto lấy
tên của tỉnh thành nơi nhà sư đã sống. Sau đó có một nhà sư khác tên là
Yatsuhashi Kengyo (1614-1685) ở Kyoto
học cách đàn và hát theo thể nhạc mới tsukushi-goto và ông lại tạo ra
một thể điệu mới cho nhạc koto bằng cách phỏng theo hình thức cấu tạo
sáu bài hát của tsukushi-goto, và được gọi là kumi-uta.
Kengyo Yatsuhashi với cây đàn Koto
Sự
khác biệt giữa hai trường phái Tsukushi-goto và Yatsuhashi nằm trong
cách lên dây đàn và cách sử dụng điệu. Trường phái Tsukushi-goto lên dây
đàn theo điệu Ryo của nhã nhạc (gagaku), nghĩa là âm giai với 12 bán
cung trong khi trường phái Yatsuhashi chỉ dùng hai điệu mới gọi là
Hirajoshi (Sol-sol thấp một bát độ-SiĐo-Mi-Fa-La-SiĐo-Mi-Fa-La-Si) và
Kumoijoshi (Mi-La thấp một quãng 5 - Sib-Re-Mi-Fa-La-Sib-Re-Mi-Fa-La-Si)
dựa theo điệu In (âm) âm giai lên gồm các nốt: Mi-Fa-La-Si-Re-Mi trong
khi âm giai xuống gồm các nốt: MiĐo-Si-La-Fa-Mi. Hai điệu Hirajoshi và
Kumoijoshi trở thành hai thang âm tiêu biểu và đặc thù của nhạc Nhựt Bổn
ngày nay. Nhà sư Yatsuhashi và những người học trò của ông có sáng tác
một số bài độc tấu đàn tranh nhưng hầu hết các bài đặt ra đều là bài hát
với phần đệm đàn koto. Đồng lúc với sự phát triển thể nhạc mới
Tsukushi-goto, nhạc shamisen (shamisen là một đàn dây giống như cây đàn
tam của Việt Nam) cũng bắt đầu lộ diện ở Nhựt. Ông Ikuta Kengyo
(1656-1715) mới phối hợp đàn shamisen và đàn tranh koto trong khi trình
diễn Ji-Uta (một loại hát đệm đàn Shamisen). Từ đó về sau, những bài bản
gồm có một phần ngắn hát và một phần dài đàn tranh koto. Phần đánh đàn
gọi là Te-goto và thể cách trình diễn các bài hát kiểu đó gọi là
Te-goto-mono.
Đàn Koto trường phái Ikuta (Sanh điền lưu) & Đàn Koto trường phái Yamada (Sơn điền lưu)
Trong
khi Te-goto-mono được bành trướng mạnh ở Kyoto và Osaka, thì ở Edo, một
nhạc sĩ khác tên là Yamada Kengyo (1757-1817) mới tạo ra một thể cách
mới cho nhạc koto là phối hợp nhạc hiện đại shamisen và nhạc koto. Vào
cuối thời đại Edo (1603-1867) ông Yoshizawa Kengyo ở Nagoya
lại nghĩ ra cách để đàn koto một mình đệm bài hát mà thôi. Kiểu này đã
từng dùng trong Kumi-Uta, nhưng có khác là ông Yoshizawa Kengyo trích
lời ca qua các bài thơ cổ điển trong các cổ thi tuyển danh tiếng như
Kokin Waka Shu, Kin Yo Shu, vv... Ông ta lại chế ra một cách lên dây
hoàn toàn khác hẳn hai điệu âm (In) và dương (Ryo) và đặt tên là
Kokin-joshi lấy từ tên Kokin Waka Shu mà ra. Âm giai như sau: Mi-La-Si
(thấp)-Re-Mi-Fa-La-Si-Re-Mi-Fa-La-Si.
Từ
khi nhạc Tây Âu bắt đầu xâm nhập đất Phù Tang vào đầu thời đại Meiji
(1868 trở về sau), nhiều nhạc sĩ cổ truyền Nhựt thử sử dụng các âm giai
mới vào trong nhạc Nhựt và một số ít đã thành công. Miyagi Michio
(1895-1956), nhà soạn nhạc Nhựt đầu tiên đã phối hợp hai luồng nhạc Á
Âu, sử dụng hai nhạc ngữ Đông Tây trong khi soạn các nhạc phẩm cho đàn
koto. Từ đó những nhạc sĩ trẻ tuổi và các người đánh đàn tranh koto đều
bắt chước ông Miyagi Michio. Có một số phê bình ông và lại thử một hướng
đi khác. Gần đây, nhứt là từ khi sau thế chiến thứ hai (1939), rất đông
nhà soạn nhạc Nhựt thi đua nhau sáng tác nhạc đương đại dựa trên nhạc
cổ truyền. Cây đàn tranh Koto làm bằng cây pawlonia, dài 1m80. Mười ba
dây tơ căng dài trên mặt âm bảng. Mười ba con nhạn hình chữ A hứng chịu
13 dây đàn. Đàn tranh Koto không có trục giống như đàn Kayakeum của
Triều Tiên. Người khảy đàn mang móng vào ngón tay cái, trỏ và giữa của
bàn tay mặt và dùng ba ngón tay trỏ, giữa, và áp út của bàn tay trái
mang móng đeo ở ngón tay thì đủ biết người đàn thuộc trường phái nào
(Gagaku, Tsukushi-goto, Ikuta, Yamada). Đàn tranh koto có thể đàn độc
tấu, tam tấu với với đàn shamisen, ống tiêu shakuhachi, hay đàn trong
dàn nhạc cổ điển hay cận đại.
(Trích “Các loại Đàn Tranh ở viễn Đông” – GS Trần Quang Hải trình bày)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét